Chuyển tới nội dung
Những điều cần biết khi đóng bảo hiểm xã hội
Tin tức & Sự kiện

Những điều cần biết khi đóng bảo hiểm xã hội

02-08-2017
Việc đóng bảo hiểm xã hội hiên nay không còn xa lạ với bất kỳ cá nhân, tổ chức hay công ty nào. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu đúng, hiểu đủ các kiến thức về bảo hiểm xã hội. Vậy những điều cần biết khi đóng bảo hiểm xã hội là gì? Bài viết này sẽ giải đáp những thắc mắc cũng như cung cấp những hiểu biết cơ bản nhất về bảo hiểm xã hội.

Đối tượng BHXH

Vấn đề tưởng như rất rõ ràng vì nhiều người cho rằng đối tượng của BHXH là người lao động, nhưng thực tế không phải như vậy. Với bản chất vốn có của mình, BHXH không “bảo hiểm” cho bản thân người lao động mà “bảo hiểm” cho thu nhập của họ. Chỉ khi người lao động tham gia BHXH và thu nhập của họ bị giảm sút, hoặc bị mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, hoặc khả năng lao động không được sử dụng do các rủi ro và các sự kiện được bảo hiểm, khi đó họ mới được “bảo hiểm”. Nói cách khác, BHXH với sứ mạng là “bù đắp” khoản thu nhập bị giảm hoặc mất của người lao động, nên đối tượng của BHXH là thu nhập. Còn đối tượng tác động (hay đối tượng đảm bảo) của BHXH là người lao động và gia đình họ theo quy định của pháp luật BHXH của mỗi quốc gia.

Do vậy, cần phải phân biệt được đối tượng BHXH, đối tượng tác động của BHXH; đối tượng thụ hưởng BHXH và đối tượng tham gia BHXH. Đối tượng thụ hưởng BHXH là những người lao động và gia đình họ (theo quy định của pháp luật BHXH) khi có phát sinh BHXH, nghĩa là khi người lao động gặp các sự kiện bảo hiểm hoặc các rủi ro bảo hiểm  thì mới được hưởng trợ cấp BHXH (theo quy định của pháp luật BHXH Việt Nam hiện hành, các sự kiện và các rủi ro được bảo hiểm gồm: ốm đau; thai sản; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; thất nghiệp; hưu; chết). Đối tượng tham gia BHXH là người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước trong một số trường hợp. Như vậy, người lao động có thể vừa là người tham gia BHXH, vừa là người thụ hưởng BHXH.

Các chế độ BHXH

Một trong những nội dung quan trọng của BHXH là các chế độ BHXH. Chế độ BHXH là hệ thống các quy định của nhà nước về mức hưởng, điều kiện hưởng; mức đóng, điều kiện đóng BHXH. Tùy theo từng trường hợp BHXH mà nhà nước có các quy định khác nhau về các mức, các điều kiện này. Trong Công ước 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) có quy định trợ cấp tối thiểu cho 9 nhánh chế độ BHXH là (1) chế độ ốm đau; (2) chế độ thai sản; (3) chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (4) chế độ bảo hiểm thất nghiệp; (5) chế độ chăm sóc y tế; (6) chế độ tàn tật (ở Việt Nam còn gọi là chế độ mất sức lao động, nhưng với nghĩa khác); (7) chế độ tử tuất; (8) chế độ hưu trí, và (9) chế độ chăm sóc gia đình (cho những người đông con). Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước trong từng giai đoạn, để có thể xây dựng, áp dụng các quy định này. Như đã nêu, ở Việt Nam hiện nay, theo quy định của Luật BHXH, đã thực hiện 6 chế độ trong 9 chế độ BHXH nêu trên. Trước năm 1995, nước ta cũng đã thực hiện 6 chế độ, trong đó có chế độ mất sức lao động, nhưng lại không có chế độ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).

Quy định các chế độ BHXH là những nội dung cốt lõi của bất kỳ hệ thống BHXH nào, trong đó quy định rõ ràng các quan hệ trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH; quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH. Ví dụ, trong chế độ BHTN, quy định rất rõ đối tượng nào được tham gia bảo hiểm; quy định mức đóng góp BHTN của người lao động và người sử dụng lao động; quy định khi nào thì người thất nghiệp được hưởng trợ cấp BHTN; quy định về mức hưởng trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp; quy định về các quyền lợi khác có liên quan như học nghề, hỗ trợ tìm việc làm.

Các trợ cấp BHXH

Trợ cấp BHXH là khoản tiền người thụ hưởng BHXH nhận được từ quỹ BHXH khi người lao động có phát sinh các sự kiện bảo hiểm, hoặc các rủi ro được bảo hiểm, theo quy định của pháp luật BHXH. Trợ cấp BHXH là trợ cấp bằng tiền. Ở một số hệ thống BHXH, có những loại trợ cấp bằng hiện vật (ví dụ như cung cấp các đồ dùng cho trẻ sơ sinh; cung cấp các dụng cụ chỉnh hình cho người bị tai nạn lao động…). Tuy nhiên, hiện nay, chủ yếu là các trợ cấp bằng tiền. Người lao động khi phát sinh các sự kiện hoặc các rủi ro được bảo hiểm  theo quy định của pháp luật BHXH, thì người thụ hưởng BHXH (có thể là bản thân họ hoặc người thân trong gia đình) được cơ quan BHXH chi trả các trợ cấp BHXH. Trợ cấp BHXH có hai loại là trợ cấp một lần và trợ cấp hàng tháng. Ngoài ra, còn phân biệt trợ cấp ngắn hạn (cho các chế độ BHXH ngắn hạn, như ốm đau, thai sản) và trợ cấp dài hạn (cho các chế độ BHXH dài hạn, như hưu trí…). Việc xác định được mức trợ cấp BHXH cho từng chế độ BHXH là một nội dung rất quan trọng của BHXH, có ý nghĩa rất lớn đối với người thụ hưởng BHXH và đối với quỹ BHXH. Nếu xác định mức trợ cấp BHXH không khoa học, có thể dẫn đến hoặc quyền lợi của người thụ hưởng bị ảnh hưởng (nếu mức quá thấp), không có ý nghĩa “bù đắp thu nhập”, hoặc ảnh hưởng đến hoạt động của quỹ BHXH (nếu mức quá cao), có thể dẫn đến không cân đối được quỹ, gây vỡ quỹ BHXH ( về vấn đề này chúng tôi sẽ trình bày trong những bài viết tiếp theo - tác giả).

Quỹ BHXH

Quỹ BHXH được hiểu là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH, bao gồm: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác. Những đóng góp và những khoản thu này hình thành một quỹ tiền tệ tập trung được nhà nước quản lý (thông qua một tổ chức của Nhà nước). Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả các trợ cấp BHXH và cho các chi phí quản lý. Xét về sự hình thành và mục đích sử dụng, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước; là điều kiện quan trọng nhất để hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế đã coi quỹ BHXH như “xương sống” của toàn bộ hệ thống BHXH của bất kỳ quốc gia nào, và có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, ổn định chính trị của đất nước. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết được những nhu cầu phát sinh của người thụ hưởng BHXH khi có sự kiện bảo hiểm hoặc gặp những rủi ro được bảo hiểm theo quy định của pháp luật, với tổng dự trữ thấp nhất, nhưng khả năng thanh toán cao nhất. Mặc dù là quản lý tập trung, nhưng trong quỹ BHXH có thể hình thành các quỹ thành phần, gồm quỹ BHXH cho các chế độ BHXH ngắn hạn, quỹ hưu trí; quỹ BHTN…(việc quy định các quỹ thành phần phụ thuộc vào cơ chế quản lý BHXH của mỗi nước).

Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Nguồn quan trọng nhất, cơ bản nhất là sự đóng góp của các bên tham gia BHXH (ở nước ta là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp), gọi là phí BHXH. Phí BHXH được tính cho từng chế độ BHXH và phân chia tỷ lệ đóng góp giữa các bên tham gia BHXH. Một nguồn thu khác cho quỹ BHXH là phần lãi thu được do các hoạt động đầu tư sinh lời từ phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH. Vì như đã biết, trong hoạt động BHXH có một bộ phận của quỹ được người lao động và người sử dụng lao động đóng góp nhưng chưa được sử dụng ngay (nhất là đối với các chế độ bảo hiểm dài hạn, như chế độ hưu trí chẳng hạn). Phần này được đầu tư để vừa bảo tồn giá trị của quỹ BHXH, vừa làm tăng quy mô của quỹ, tăng khả năng chi trả của quỹ trong tương lai. Phần thu này phụ thuộc vào khả năng quản lý quỹ của cơ quan BHXH trong từng thời kỳ. Một nguồn thu khác của quỹ đó là các khoản nộp phạt của những cá nhân, tổ chức kinh tế vi phạm các quy định của pháp luật BHXH, như chậm nộp BHXH, nộp thiếu…(cần lưu ý là khoản nộp phạt này là khoản tăng thêm - phạt, nằm ngoài khoản tiền tổ chức, đơn vị buộc phải đóng góp BHXH theo quy định. Một số cơ quan, đơn vị hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai là sau khi đã nộp phạt do chậm nộp BHXH thì không phải nộp phần nghĩa vụ phải đóng góp BHXH cho người lao động nữa). Ngoài ra, các quỹ BHXH có thể có các khoản thu hợp pháp khác được pháp luật của mỗi nước quy định.

Như đã nêu trên, mục đích hình thành quỹ BHXH là để chi trả các trợ cấp BHXH, góp phần đảm bảo thu nhập cho đối tượng thụ hưởng BHXH. Chi trả các trợ cấp BHXH chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi của quỹ BHXH. Ngoài ra, quỹ BHXH còn đảm bảo chi trả tiền lương cho bộ máy quản lý của cơ quan BHXH, chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật.

Tổ chức quản lý BHXH

Quản lý BHXH được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp với cơ chế quản lý chung của nền kinh tế. Quản lý BHXH được hiểu trên hai giác độ là quản lý nhà nước về BHXH và quản lý các hoạt động sự nghiệp BHXH. Quản lý nhà nước về BHXH phải do các cơ quan chính phủ đảm nhận.

Hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình tổ chức quản lý BHXH khác nhau. Có một số nước (chiếm số ít), chính phủ giao cho một bộ nào đó đảm nhận cả chức năng quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp BHXH. Đa số các nước, các bộ không đảm nhận chức năng quản lý sự nghiệp BHXH, mà giao cho một tổ chức công đảm nhận các hoạt động này, dưới sự điều hành của Hội đồng quản trị, hoặc Hội đồng quản lý BHXH (như ở Việt Nam hiện nay).

Về quản lý nhà nước về BHXH:

Tại sao phải có quản lý nhà nước về BHXH? Đó là vì BHXH là một trong những chính sách ASXH lớn nhất của bất kỳ quốc gia nào, nên Nhà nước phải quản lý. Hơn nữa, quản lý nhà nước về BHXH xuất phát từ chức năng xã hội của Nhà nước. Quản lý nhà nước về BHXH được thể hiện thông qua một số nội dung sau:

- Quản lý thống nhất các hoạt động BHXH trên phạm vi toàn quốc: Nhà nước ban hành các chính sách vĩ mô, định hướng mọi hoạt động của hệ thống BHXH. Nhà nước định ra các chế độ BHXH, quy định các mức đóng góp BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Nhà nước định hướng các hoạt động và kiểm soát các hoạt động của Quỹ BHXH, nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHXH và người thụ hưởng BHXH, giảm thiểu những rủi ro do những nguyên nhân khách quan và chủ quan; góp phần đảm bảo ASXH quốc gia.

- Xây dựng, ban hành pháp luật BHXH: Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng của mình (bộ, ngành hoặc quốc hội, tuỳ theo mô hình xây dựng luật pháp của mỗi nước) xây dựng các văn bản pháp luật về BHXH, bao gồm các đạo luật, các luật, sắc lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật khác (nghị định, quyết định, thông tư….) và các văn bản có liên quan để thực hiện pháp luật BHXH trong phạm vi quốc gia. Do tính đặc thù của BHXH liên quan đến ASXH và an ninh xã hội, nên khác với bảo hiểm thương mại (ở đó Nhà nước chỉ ban hành những nội dung cơ bản nhất, còn  các mức, các chiến lược/chính sách cụ thể là do các công ty bảo hiểm thực hiện), đối với BHXH, Nhà nước không chỉ ra các văn bản chung mà có các quy định rất chặt chẽ về đối tượng tham gia BHXH; đối tượng thụ hưởng BHXH; các chế độ BHXH và các mức phí BHXH, các cơ quan BHXH không được tự ý đặt ra mà phải tuân thủ chặt  chẽ các chế độ BHXH và các quy định của Nhà nước về BHXH (trong khi đó các công ty bảo hiểm thương mại có thể định ra các sản phẩm bảo hiểm khác nhau áp dụng đối với các nhóm đối tượng khác nhau).

- Định hướng các hoạt động BHXH: Song song với xây dựng pháp luật BHXH, Nhà nước đề ra các cơ chế, chính sách BHXH nhằm định hướng các hoạt động BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Nhà nước có thể định hướng mở rộng đối tượng tham gia BHXH; định hướng mức độ bao phủ BHXH trong từng giai đoạn; định hướng mô hình hoạt động sự nghiệp BHXH (ví dụ ngoài hệ thống BHXH chính thống của Nhà nước, có thể có BHXH của tư nhân, BHXH của một số ngành đặc thù như công chức, lực lượng vũ trang…); định hướng đầu tư quỹ BHXH…

- Thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động sự nghiệp BHXH: Thanh tra, kiểm tra và giám sát là một trong các chức năng của quản lý nhà nước. Đối với hoạt động BHXH, thông qua các cơ quan quản lý, Nhà nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra các hoạt động thu-chi BHXH và hoạt động đầu tư quỹ BHXH của cơ quan BHXH theo quy định của pháp luật; phát hiện, xử lý các khiếu kiện, tranh chấp và các vi phạm BHXH của các bên có liên quan (kể cả vi phạm của chính các cơ quan BHXH). Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động của BHXH có thể là định kỳ hoặc đột xuất; có thể là thanh tra, kiểm tra toàn diện hoặc chuyên đề, tùy theo mục tiêu quản lý.

- Bảo hộ và bảo trợ cho các hoạt động BHXH: Khác với các loại hình bảo hiểm khác, đối với BHXH, Nhà nước thực hiện các chức năng bảo hộ và bảo trợ nhằm đảm bảo ASXH quốc gia. Nhà nước có những bảo hộ đặc biệt đối với quỹ BHXH, nhằm đảm bảo không bị ảnh hưởng của những biến động về kinh tế và xã hội; đặc biệt là những biến động về tài chính. Nhà nước bảo hộ quyền lợi cho các công dân của mình khi tham gia BHXH (quyền được hưởng các trợ cấp BHXH; đảm bảo giá trị của các trợ cấp…); bảo hộ giá trị của quỹ BHXH; bảo hộ các khoản đầu tư của quỹ BHXH…Nhà nước hỗ trợ về tài chính cho quỹ BHXH trong những trường hợp quỹ bị thâm hụt, hoặc không có khả năng chi trả vì những lý do bất khả kháng, như chiến tranh, thiên tai…

Về tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH:

Dù mô hình có thể được tổ chức khác nhau, nhưng hoạt động sự nghiệp BHXH có những chức năng chủ yếu sau:

- Thực hiện thu-chi BHXH: Thông quan bộ máy của mình và trên cơ sở pháp luật BHXH của mỗi nước, các cơ quan BHXH tiến hành các nghiệp vụ thu tiền đóng BHXH của người sử dụng lao động và người lao động và triển khai chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng BHXH và các chi phí quản lý khác.Thực hiện các nghiệp vụ kế toán-tài chính BHXH theo chính sách tài chính của mỗi nước.

-  Quản lý đối tượng: Trong hoạt động BHXH có hai nhóm đối tượng, đó là nhóm đối tượng tham gia BHXH và nhóm đối tượng thụ hưởng BHXH. Nhóm đối tượng tham gia BHXH, bao gồm người sử dụng lao động và người lao động. Khi tham gia BHXH, người sử dụng lao động và người lao động đều phải đóng phí BHXH. Vì vậy để đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH, các cơ quan BHXH phải nắm chắc được số lượng các đơn vị tham gia BHXH, những di biến động trên từng địa bàn và trong toàn quốc. Đồng thời, cũng phải có được những thông tin đầy đủ về người lao động để xác định được nguồn thu và dự báo được các khoản chi trong tương lai.Nhóm đối tượng thụ hưởng BHXH bao gồm người lao động và gia đình họ (theo qui định của từng nước). Cơ quan BHXH cũng phải có đầy đủ các thông tin về người lao động khi thụ hưởng BHXH để chi đúng, chi đủ cho đối tượng và hạn chế những sự lạm dụng BHXH.

Để quản lý tốt đối tượng, các cơ quan BHXH có các công cụ quản lý, đó là sổ/thẻ BHXH, trong đó có ghi chép (được mã hoá) các thông tin cần thiết về đối tượng, đặc biệt là đối tượng thụ hưởng BHXH. Hiện nay, đa số các nước đã ứng dụng công nghệ tin học hiện đại để quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH.

- Quản lý quỹ BHXH: Quản lý quỹ BHXH bao gồm quản lý công tác thu BHXH và quản lý công tác chi BHXH, nhằm đảm bảo cho quỹ được an toàn và đảm bảo thu đúng, thu đủ; chi đúng, chi đủ cho đối tượng thụ hưởng BHXH; hạn chế tối đa sự thất thoát quỹ BHXH.Xây dựng chiến lược tăng trưởng quỹ BHXH thông qua các hoạt động đầu tư. Tham gia vào thị trường tài chính của quốc gia. Đây là một trong những chức năng quan trọng của cơ quan BHXH. Bởi lẽ các quá trình thu và chi BHXH không diễn ra song trùng và thông thường sự tồn tích của quỹ BHXH rất lớn. Nếu được Nhà nước điều tiết thông qua các chính sách và công cụ tài chính, quỹ BHXH sẽ góp phần rất lớn vào việc ổn định nền tài chính quốc gia.

- Thực hiện thanh tra, kiểm tra: Tuỳ theo mô hình của từng nước mà nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra về BHXH có khác nhau. Với những nước trao quyền tự chủ cao cho Hội đồng quản trị BHXH thì trong hệ thống sự nghiệp BHXH chức năng thanh tra, kiểm tra rất quan trọng. Đối với những nước có quản lý nhà nước về BHXH riêng, thì chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động BHXH của các cơ quan quản lý nhà nước rất lớn. Tuy nhiên, trong hệ thống BHXH vẫn có chức năng thanh tra, kiểm tra của mình nhằm bảo đảm các hoạt động BHXH đúng với các qui định của pháp luật.

 

32 bầu chọn / Điểm: 0